Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào ngày 25 tháng 11 năm 2005. Sau Nhã nhạc cung đình Huế, đây là di sản thứ hai của Việt Nam được nhận danh hiệu.
Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên trải dài ở vùng núi cao phía Tây 4 tỉnh Nam Trung Bộ là: Quảng Ngãi, Gia Lai, Đắk Lắk và Lâm Đồng. Chủ thể của không gian văn hóa này gồm nhiều dân tộc khác nhau: Ê đê, Jarai, Ba Na, Mạ, Lặc...
Cồng chiêng gắn bó mật thiết với đời sống tín ngưỡng của người Tây Nguyên. Theo quan niệm của nhiều dân tộc Tây Nguyên, cồng chiêng là vật thiêng, là cầu nối giữa con người và thần linh (Yàng). Họ tin rằng mỗi cái cồng, chiếc chiêng đều có thần linh trú ngụ; trước khi sử dụng phải trải qua nhiều nghi lễ cúng tế khắt khe, và có những cấm kị tùy theo quan niệm mỗi dân tộc. Người ta còn gọi tên từng chiếc chiêng như con người: dân tộc Brâu gọi hai chiếc chiêng Tha là chiêng vợ, chiêng chồng; dân tộc Ê Đê gọi 6 chiêng dàn Jho là chiêng cha, chiêng mẹ, chiêng con...
Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên bao gồm các yếu tố bộ phận sau: cồng chiêng, các bản nhạc tấu bằng cồng chiêng, những người chơi cồng chiêng, các lễ hội có sử dụng cồng chiêng (Lễ mừng lúa mới, Lễ cúng Bến nước...), những địa điểm tổ chức các lễ hội đó (nhà dài, nhà rông, nhà gươl, rẫy, bến nước, nhà mồ, các khu rừng cạnh các buôn làng Tây Nguyên,...), v.v.
Hiện tại, ở các vùng có cồng chiêng như ở Tây nguyên, Lễ hội Cồng chiêng được tổ chức hàng năm là một hoạt động vừa có ý nghĩa bảo tồn bản sắc văn hóa vừa là một sản phẩm du lịch ăn khách.
Năm 2005, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO ghi danh là Kiệt tác truyền khẩu và Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Đây là loại hình văn hóa phi vật thể thứ hai của Việt Nam vinh dự nhận danh hiệu này sau Nhã nhạc Cung đình Huế. Đến năm 2008, di sản này được chuyển sang Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Về nguồn gốc của cồng chiêng Tây Nguyên vẫn còn nhiều lý giải khác nhau. Theo một số nhà nghiên cứu, cồng chiêng là “hậu duệ” của đàn đá. Trước khi có văn hóa đồng, người xưa đã tìm đến loại khí cụ đá như cồng đá, chiêng đá, chiêng tre… Rồi sau đó tới thời đại đồ đồng mới có cồng đồng, chiêng đồng… Trong thời kỳ hoàng kim của đồ đồng, các vật dụng bằng đồng lần lượt được ra đời, trong số đó, chiêng đồng được coi là đỉnh cao với kỹ thuật chế tác tinh xảo.
Cồng chiêng Tây Nguyên là cái nôi của cồng chiêng Đông Nam Á, bởi vết tích hiện vật từ những nét chạm khắc biểu hiện người đánh cồng chiêng với dáng đánh giống với người Tây Nguyên có trên trống đồng Đông Sơn vốn có lịch sử hơn 4.000 năm.
Từ xa xưa, cồng chiêng gắn bó với mọi hoạt động của cộng đồng cư dân Tây Nguyên. Cồng chiêng được đánh lên để mừng lúa mới, xuống đồng, là biểu hiện của tín ngưỡng, là phương tiện giao tiếp với siêu nhiên. Tất cả các lễ hội trong năm, từ lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh đến lễ bỏ mả, lễ cúng máng nước, lễ mừng cơm mới, lễ đóng cửa kho, lễ đâm trâu, hay trong một buổi nghe khan... đều phải có tiếng cồng chiêng như sợi dây kết nối những con người trong cùng một cộng đồng. Chính các đồng bào dân tộc ở Tây Nguyên đã thổi hồn và tiếp thêm sức sống cho cồng chiêng Tây Nguyên để những âm thanh vang vọng khi ngân nga sâu lắng, khi thôi thúc trầm hùng, hòa quyện với tiếng suối, tiếng gió và tiếng lòng của đồng bào. Cồng chiêng là bằng chứng độc đáo, là nét đặc trưng của truyền thống văn hóa các dân tộc Tây Nguyên.
Bên cạnh đó, cũng có giả thuyết cho rằng, cồng chiêng rất có thể có nguồn gốc Việt - Mường, nhưng về sau trong quá trình dài đã bị mai một đi; chỉ còn lại nhánh đồng bào trên núi là lưu giữ được. Thêm vào đó, Tây Nguyên và vùng lân cận là nơi làm ra và sử dụng đàn đá, nơi sử dụng nhạc cụ cồng chiêng và không phải là nơi làm ra cồng chiêng, mà cồng chiêng Tây nguyên đều do người Việt, người Lào và người Khmer chế tác, vì ở Tây Nguyên chưa trải qua đúc kim khí, người Tây Nguyên mua cồng chiêng của người Việt, Lào và Khmer sau đó về thỉnh âm lại theo truyền thống của mình.
Tuy nhiên, cũng có nhận định rằng, xét về không gian văn hóa và lịch sử văn hóa tộc người thì Tây Nguyên là một vùng văn hóa rất đặc trưng của Việt Nam, bởi Việt Nam là một quốc gia được xem như là Đông Nam Á thu nhỏ vì những đặc trưng về điều kiện tự nhiên, khí hậu và văn hóa. Một số tộc người Tây Nguyên (nhóm Nam Đảo) trong quá trình "thiên cư" lên vùng đất Tây Nguyên, có thể họ đã mang theo nhạc cụ cồng chiêng. Vì vậy, sản phẩm nhạc cụ cồng chiêng ở Tây Nguyên không hoàn toàn là của người Việt, Lào và Khmer. Xét về mặt lịch sử, cực Bắc của Đông Nam Á cổ đại chính là bờ Nam sông Dương Tử (sông Trường Giang của Trung Quốc) nên nguồn gốc xuất xứ của nhạc cụ cồng chiêng còn phải xem xét rộng hơn Đông Nam Á ngày nay.
Mặc dù có nhiều lý giải khác nhau về nguồn cội và vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu chính xác thời điểm cồng chiêng xâm nhập vào Tây Nguyên, thế nhưng không thể phủ định vai trò, ý nghĩa đặc biệt to lớn của cồng chiêng Tây Nguyên đối với đời sống, văn hóa, phong tục tập quán… của đồng bào địa phương. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã tồn tại suốt chiều dài lịch sử, là biểu tượng, là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của cộng đồng làng bản nơi đây.